FOODCROPS. An ninh năng lượng và an ninh lương thực là hai vấn đề lớn trong chương trình của quốc gia. Đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn tại các vùng sâu, vùng xa nằm trong đề án phát triển nhiên liệu sinh học được thủ tướng phê duyệt. Việt Nam với khoảng 70% dân số sống tại nông thôn và hơn 40% GDP từ nông nghiệp, Việt Nam cơ bản vẫn là nước nông nghiệp. Nhiên liệu sinh học là năng lượng mới thuộc danh mục đặc biệt ưu đãi đầu tư. Sử dụng nhiên liệu sinh học làm từ chất liệu nông nghiệp là một hướng đi cần thiết và thiết thực, mang lại trước mắt hai lợi ích là sử dụng cacbon trung tính làm nhiên liệu cho giao thông và khuyến khích phát triển cây trồng. Tuy nhiên mối nguy hiểm mà các nước phát triển nhiên liệu sinh học được cảnh báo là cây nhiên liệu sinh học mang nguy cơ thành cây xâm lấn (GISP). Nhiên liệu từ cây làm nhiên liệu làm lương thực sẽ được tận dụng khai thác thế nào?! Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam là tập đoàn lớn hoạt động trong lĩnh vực năng lượng cho phát triển đất nước. Năm 2007 sản lượng khai thác 20 triệu tấn dầu thô cần phấn đấu đạt sản lượng khai thác giai đoạn 2006 -2025 là 25-38 triệu tấn quy dầu/năm. Chương trình phát triển năng lượng sinh học khẳng định vai trò chủ đạo của Petro Vietnam trong quá trình phát triển mới này. Dự báo nhu cầu nhiên liệu sinh học đến năm 2025, ước tính nhu cầu ethanol là 300 triệu lít, đến năm 2015 là 457 triệu lít, năm 2020 là 687 triệu lít và năm 2025 là 1 tỷ lít. Trong 10 năm qua, năng lượng sơ cấp tăng trung bình 16,4%, tốc độ tăng trưởng năng lượng tăng 11% cao hơn tăng trưởng kinh tế 1,46 lần, khả năng khai thác dầu khí cũng chỉ đáp ứng 30-40 năm (Viện năng lượng). Xăng pha 5% đến 10% ethanol động cơ xăng đều hoạt động bình thường không cần điều chỉnh gì, hơn nữa ta lại giảm đáng kể phụ thuộc và nguồn dầu mỏ (TGĐ Nguyễn Xuân Sơn). Năng lượng và môi trường cần được cân bằng bền vững. Thành phố Hà Nội và Tp HCM đang bị ô nhiễm nghiêm trọng (UNEP) cần được cải thiện. Việt Nam đã có nhà máy sản xuất xăng dầu tại tỉnh Quảng Nam do công ty cổ phần Đồng Sanh làm chủ đầu tư có công suất 100.000 tấn cồn Ethanol/năm tương đương 125 triệu lít/năm . Bã sắn sau khi được dùng sản xuất ethanol, được tái chế thành phân vi sinh phục vụ sản xuất với giá thành thấp. Quảng Nam và Đà Nẵng đã có 6 cây xăng E5 (5% Ethanol pha vào xăng) trên tổng số hơn 40 cây xăng E5 trên toàn quốc cung cấp nhiên liệu sạch cho thị trường trong nước (TTXVN).
Việt Nam có nhà máy sản xuất xăng xanh đầu tiên
Ngày 2/4, lễ khánh thành Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Ethanol (xăng xanh) đầu tiên tại Việt Nam đã diễn ra tại Cụm Công nghiệp-Làng nghề Đại Tân, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Nhà máy Ethanol Đại Lộc, do Công ty cổ phần Đồng Xanh làm chủ đầu tư, có tổng vốn hơn 600 tỷ đồng, được xây dựng trên diện tích 18ha trên địa bàn xã Đại Tân, huyện Đại Lộc.
Công suất của nhà máy 100.000 tấn cồn Ethanol/năm, tương đương 125 triệu lít/năm. Kể từ khi cho ra đời mẻ sản phẩm đầu tiên vào tháng 9/2010, đến nay nhà máy đã đi vào hoạt động và sản xuất được 12.000 tấn Ethanol phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Khi đi vào hoạt động hết công suất, nhà máy sẽ tạo công ăn việc làm trực tiếp cho hơn 300 lao động và cho khoảng 2 vạn lao động nông dân sản xuất sắn với giá bao tiêu sản phẩm luôn cao hơn thị trường.
Bên cạnh đó, bã sắn sau khi được dùng sản xuất Ethanol, nhà máy tái chế thành phân vi sinh phục vụ sản xuất cho người dân trên địa bàn với giá thành thấp hơn giá thị trường nhưng chất lượng tương đương.
Hiện nay trên địa bàn Quảng Nam và Đà Nẵng đã có 6 cây xăng E5 (5% Ethanol pha vào xăng) trên tổng số hơn 40 cây xăng E5 trên toàn quốc cung cấp nhiên liệu sạch cho thị trường trong nước.
Thông qua hệ thống các nhà phân phối, nhà máy phấn đấu đến cuối năm 2011 sẽ đem sản phẩm “xăng xanh” đến với thị trường trên toàn quốc với khoảng 200 điểm bán lẻ.
Ông Lê Phước Thanh, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam nhấn mạnh khi nhà máy nhiên liệu sinh học Ethanol Đại Lộc đi vào hoạt động không chỉ góp phần bảo vệ môi trường, tạo công ăn việc làm cho người dân tại địa phương mà còn góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế địa phương theo hướng tích cực; góp phần thu được một nguồn lớn ngoại tệ cho đất nước./.
Nguyễn Sơn (TTXVN/Vietnam+)
Source:http://www.vietnamplus.vn/Home/Viet-Nam-co-nha-may-san-xuat-xang-xanh-dau-tien/20114/83887.vnplus
Sản xuất nhiên liệu sinh học đặt lợi ích nông dân lên hàng đầu
Thanh Tùng , Báo Nhân dân điện tử
LTS - Ngày 20-3, nhân lễ khởi công xây dựng Nhà máy nhiên liệu sinh học (NLSH) tại huyện Bù Ðăng (tỉnh Bình Phước), phóng viên (PV) Báo Nhân Dân đã có cuộc trao đổi ý kiến với ông Nguyễn Xuân Sơn, Tổng Giám đốc (TGÐ) Tổng công ty Dầu Việt Nam, một trong các nhà đầu tư vào dự án.
PV: Ông có thể cho biết vai trò của nhà máy vừa khởi công trong chiến lược tổng thể của ngành dầu khí Việt Nam?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Nhà máy NLSH tại Bình Phước là nhà máy sản xuất ethanol (cồn sinh học) thứ hai của Tổng Công ty Dầu Việt Nam, được xây dựng sau nhà máy đặt tại Phú Thọ, khởi công vào tháng 6-2009. Hai nhà máy nằm trong Kế hoạch và chương trình triển khai các dự án NLSH của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam nhằm thực hiện "Ðề án phát triển NLSH đến năm 2015, tầm nhìn 2025" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 20-11-2007. Về vai trò của dự án, tôi có thể tóm gọn trong ba ý, đó là bảo đảm an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường, và phát triển nông thôn vùng sâu, vùng xa.
PV: An ninh năng lượng quốc gia, trong bối cảnh của Việt Nam, chúng ta có thể kỳ vọng NLSH sẽ thay thế cho nhiên liệu hóa thạch?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Chúng tôi chỉ có thể nói là góp phần bảo đảm an ninh năng lượng. Theo xu thế thời đại, hiện nay một số quốc gia đang quy định bắt buộc dùng xăng pha đến 10% ethanol. Lý do là với tỷ lệ này, các động cơ xăng đều hoạt động bình thường mà không cần điều chỉnh gì. Ðiều cần lưu ý là, chỉ cần khi sử dụng xăng pha 5% ethanol (gọi là E5), thì chúng ta đã giảm đáng kể sự phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ, nếu xét lượng xăng nhập khẩu năm 2009 là gần 13 triệu tấn, và liên tục tăng hằng năm.
PV: Liệu tỷ lệ 5% đến 10% này có thể tăng lên trong tương lai?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Ðiều này sẽ tùy thuộc vào công nghệ và tập quán thị trường. Ở một số nước sử dụng loại động cơ đã điều chỉnh thì tỷ lệ này có cao hơn. Thí dụ như Bra-xin, từ năm 1976 nước này đã quy định bắt buộc dùng xăng pha 10% ethanol. Hiện nay, trên thị trường Bra-xin đã bắt buộc tỷ lệ pha 25% và khuyến khích tiêu thụ 100% ethanol. Bra-xin được công nhận là nước đầu tiên trên thế giới không bị lệ thuộc vào dầu mỏ.
PV: Trên thế giới hiện đang có một số ý kiến lo ngại ngành NLSH sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực, Tổng công ty có xem xét khía cạnh này?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Ðúng là Ngành NLSH trên thế giới phải đối mặt với vấn đề nhạy cảm về an ninh lương thực, nhất là khi giá lương thực tăng cao trong vài năm gần đây, một số nước như Mỹ đang dùng ngô để sản xuất ethanol. Tuy nhiên, sản xuất ethanol ở Việt Nam không dùng lương thực. Công nghệ của chúng tôi sử dụng nguyên liệu sắn công nghiệp. Ðây là loại nguyên liệu chuyên để sản xuất tinh bột và chế biến ra ethanol.
PV: Ông có quan tâm đến việc phải cạnh tranh để có nguyên liệu đầu vào, như chúng ta thường thấy trong câu chuyện thu mua mía hay các nông sản khác?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Năm 2009, sản lượng sắn cả nước đạt gần 10 triệu tấn. Mỗi năm Việt Nam đang xuất khẩu hàng triệu tấn sắn khô sang các nước như Trung Quốc và Hàn Quốc. Họ nhập sắn khô cũng để làm ethanol là chính. Với việc phát triển ngành NLSH, Việt Nam sẽ giảm tỷ lệ xuất khẩu sắn nguyên liệu thô với giá trị thấp.
PV: Nhưng xét đến một giai đoạn 20 hay 30 năm, tình hình nguyên liệu có thể khác đi?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Vấn đề này chúng tôi đã tính toán kỹ. Trong những năm từ 2012 đến 2014, các nhà máy ethanol chỉ tiêu thụ hết khoảng 16% sản lượng sắn cả nước. Ðến năm 2025, khi ngành sản xuất ethanol phát triển mạnh, cũng chỉ tiêu thụ dưới 50% sản lượng sắn cả nước. Ðến lúc này tôi tin rằng năng suất sắn đã tăng lên rất nhiều so với hiện nay do đầu tư nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trong những thời điểm cụ thể, nếu nguyên liệu khó khăn, chúng ta có thể nhập sắn từ Cam-pu-chia.
PV: Tổng công ty đã lựa chọn đối tác nước ngoài như thế nào?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Trong đề án này, chúng tôi nhận được nhiều đề nghị hợp tác. Nhưng chúng tôi đã chọn tập đoàn Itochu (Nhật Bản), đây là một công ty có tiềm năng tài chính mạnh, có quá trình làm ăn nhiều năm tại Việt Nam. Quan trọng hơn, Itochu đã có nhiều kinh nghiệm đầu tư sản xuất ethanol tại các nước như Bra-xin, Phi-li-pin và Thái-lan.
PV: Sản xuất ethanol tác động đến công cuộc chống biến đổi khí hậu như thế nào?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Chúng ta đều biết câu chuyện biến đổi khí hậu đang làm cả thế giới lo ngại. Cụ thể nhất ở Việt Nam là mối lo ngại về nước biển dâng cao, những vùng đồng bằng trù phú đang nuôi sống cả nước có thể sẽ chìm dưới nước biển. Người ta ước tính việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch gây ra 70% lượng khí thải trên thế giới. Khí thải chính là nguyên nhân gây ra hiệu ứng nhà kính, làm trái đất nóng lên, nước biển dâng lên, trực tiếp làm biến đổi khí hậu. Chương trình NLSH chính là một chu trình ngược lại. Trong khi sử dụng nhiên liệu hóa thạch sản sinh ra khí CO2, thì quá trình trồng nguyên liệu cho NLSH cụ thể là trồng sắn ở Việt Nam, lại hấp thụ CO2, làm giảm hiệu ứng nhà kính trên thế giới.
PV: Những nỗ lực của Tổng công ty về bảo vệ môi trường sẽ được ghi nhận như thế nào?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Thế giới đã và đang bàn cãi nhiều về giải pháp chống biến đổi khí hậu, nhưng tôi nghĩ chương trình NLSH là một minh chứng về đóng góp thiết thực của Việt Nam. Những đóng góp của Việt Nam sẽ được ghi nhận bằng chứng chỉ quốc tế về giảm phát thải, gọi tắt là CER. Chứng chỉ này được cấp cho nhà máy, căn cứ vào lượng sắn tiêu thụ và từ đó tính ra lượng khí CO2 đã được hấp thụ trong quá trình trồng sắn. Không chỉ chứng minh nỗ lực bảo vệ môi trường của Việt Nam, chúng tôi cũng có lợi trong việc bán những chứng chỉ giảm phát thải đó ra thị trường thế giới. Tùy thời giá trong mỗi giai đoạn, dự kiến doanh thu của nhà máy từ những chứng chỉ này có thể lên hàng triệu USD mỗi năm.
PV: Việc phát triển nông thôn vùng sâu vùng xa, đây có phải là một trong những mục tiêu của Tổng công ty?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Trước khi nói về Tổng công ty, tôi muốn nói về khía cạnh nhân văn của công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa sẽ kém tính nhân văn nếu khoảng cách giữa vùng giàu và vùng nghèo ngày càng giãn xa, nếu người nghèo không được hưởng thành quả của công nghiệp hóa. Ðề án NLSH sẽ tạo cơ hội để người nông dân nghèo trực tiếp tham gia vào công cuộc CNH. Nếu như nông dân Việt Nam còn nghèo, thì nông dân ở vùng sâu, vùng xa, như vùng nguyên liệu trồng sắn của Nhà máy ethanol Bình Phước, phần lớn là đồng bào các dân tộc anh em lại còn nghèo hơn mức bình quân của nông dân. Chúng ta không cần phải nêu số liệu thống kê, mà dễ dàng thấy nông dân ở đây không có những sản phẩm giá trị cao như tôm cá, hay trái cây, lúa gạo...
PV: Nhưng liệu phát triển trồng loại cây giá trị thấp như sắn có phải là hướng xóa đói, giảm nghèo?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: So sánh với Thái-lan là nước có thu nhập vượt chúng ta khá xa, họ vẫn đang trồng sắn công nghiệp và đầu tư sản xuất ethanol từ sắn trong dài hạn. Sắn là loại cây rất thích hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của vùng Ðông Nam Bộ và Tây Nguyên. Với lượng sắn thu mua hằng năm là 240 nghìn tấn, nhà máy sẽ bảo đảm nguồn thu nhập ổn định cho hơn 15 nghìn hộ nông dân trồng sắn, hầu hết ở các vùng hẻo lánh và nghèo của hai tỉnh Bình Phước và Ðác Nông. Ðiều quan trọng là chúng tôi không dừng ở việc thu mua. Trong chiến lược nguyên liệu toàn diện của Tổng công ty, chúng tôi đã có quy hoạch vùng nguyên liệu, xây dựng hệ thống thu mua, và cung ứng các dịch vụ cho nông dân từ giống, kỹ thuật, tín dụng, tư vấn và thông tin.
PV: Tổng Công ty đã tiến hành những bước liên kết với địa phương như thế nào?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Thứ nhất, chúng tôi đang hợp tác với ngành nông nghiệp tỉnh Bình Phước để quy hoạch vùng nguyên liệu sắn. Thứ hai, chúng tôi đã phối hợp với Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Miền Nam để đưa giống sắn và kỹ thuật canh tác mới cho nông dân. Thứ ba, chúng tôi đã lựa chọn sáu doanh nghiệp kinh doanh nông sản trên địa bàn tỉnh, để họ trở thành nhà cung cấp nguyên liệu dài hạn cho nhà máy.
PV: So sánh với việc xuất khẩu sắn khô, nông dân sẽ được lợi hơn khi bán sắn cho nhà máy?
TGÐ Nguyễn Xuân Sơn: Ðó là điều chắc chắn. Thứ nhất, sắn xuất khẩu cũng làm nguyên liệu công nghiệp ở nước ngoài, nhưng sắn tiêu thụ tại nhà máy sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí vận chuyển và chi phí trung gian, chúng tôi phải bảo đảm khoản tiết kiệm đó đến tay nông dân. Thứ hai, giá sắn cũng như lượng sắn xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào biến động của thị trường thế giới, trong khi nhà máy chúng tôi đã cam kết tiêu thụ ổn định với mức giá sàn bảo đảm thu nhập cho nông dân. Thứ ba, khác với các thương gia nước ngoài, chúng tôi có một cam kết chính trị, một cam kết về đạo lý phải bảo đảm đời sống cho nông dân trồng nguyên liệu phục vụ nhà máy, những người sẽ gắn bó lâu dài cùng chúng tôi trong chương trình NLSH của quốc gia.
PV: Xin cảm ơn Tổng Giám đốc.
Source: http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?article=170635&sub=131&top=38
Cây nhiên liệu sinh học có nguy cơ trở thành loài cây xâm lấn
Những nước vội vàng phát triển nhiên liệu sinh học có nguy cơ trồng phải các loài cây xâm lấn, điều này có thể dẫn đến một sự tàn phá về môi trường và kinh tế, theo các nhà sinh học cảnh báo.
Trong một báo cáo được công bố tại Hội nghị của Liên hiệp quốc về đa dạng sinh học, một liên minh gồm bốn nhóm chuyên gia đã kêu gọi các Chính phủ nên lựa chọn các chủng loài cây có nguy cơ thấp để làm nhiên liệu sinh học và nên áp dụng các biện pháp kiểm soát mới để quản lý loại cây trồng xâm lấn.
“Mối nguy hiểm mà các loài cây xâm lấn gây ra cho thế giới rất nghiêm trọng”, Sarah Simons, Giám đốc điều hành Chương trình các Loài Xâm lấn Toàn cầu (GISP) phát biểu.“Chúng là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây thất thoát các loài toàn cầu, chúng có thể đe dọa đến phương kế sinh nhai và sức khỏe con người và sẽ làm cho chúng ta phải mất tiền tỷ chi tiêu cho các nỗ lực kiểm soát và giảm nhẹ. Chúng ta không thể cứ đứng nhìn và không làm gì cả”.
Báo cáo “Cây nhiên liệu sinh học và các loài xâm lấn tự nhiên: Giảm nhẹ nguy cơ xâm lấn” đã chú trọng đặc biệt vào loại cây sậy sáo (Arundo donax), một loài cây tự nhiên thuộc vùng Tây Á đang trở nên xâm lấn tại nhiều nơi thuộc Bắc và Trung Mỹ.
Được coi là một loại cây nhiên liệu sinh học, cây sậy vốn rất dễ cháy và như vậy làm tăng khả năng cháy rừng. Loại cây này rất ưa nước, tiêu thụ hết 2.000 lít (500 gallon) nước để tăng trưởng một mét (3,25 foot) chiều cao, điều này làm tăng áp lực ở các vùng khô hạn.
Một vấn đề khác về cây trồng đó là cây cọ châu Phi (Elaeis guineensis Jacquin) cũng được trồng để làm nhiên liệu sinh học. Tại nhiều nơi ở Braxin, việc trồng cây này đã làm cho nhiều diện tích rừng với tính đa dạng sinh học hỗn hợp trở thành những nơi trồng cọ một lớp đồng nhất, theo GISP viết.
GISP là sự hợp tác bao gồm Liên đoàn Bảo tồn Tự nhiên Quốc tế (IUCN); CABI nguyên là Cục Nông nghiệp Khối thịnh vượng chung; Viện Đa dạng Sinh học Quốc gia Nam Phi (SANBI) và Tổ chức bảo vệ Rừng tự nhiên (Nature Conservancy).
Theo các số liệu do GISP dẫn chứng, các loài xâm lấn khiến cho thế giới tiêu tốn hết 1,4 nghìn tỷ đôla mỗi năm, tương đương 5% độ lớn nền kinh tế toàn cầu. Riêng nước Mỹ chi hết 120 tỷ USD hàng năm để khắc phục hơn 800 loại côn trùng xâm lấn.
Bản báo cáo đã được công bố tại Hội nghị Công ước Đa dạng sinh học (CBD) Liên hiệp quốc vốn được thành lập tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất Rio de Janeiro vào năm 1992.
(Theo AFP, VISTA-NACESTI)
Source: http://www.khoahoc.com.vn/doisong/moi-truong/20281_Cay-nhien-lieu-sinh-hoc-co-nguy-co-tro-thanh-loai-cay-xam-lan.aspx
Vấn đề hôm nay : Năng lượng và lương thực - TS Nguyễn Trọng Bình , Kiều bào Mỹ
Thế giới hiện nay, đang đối diện với hai nguy cơ mang tính toàn cầu : Nguy cơ thiếu lương thực và nguy cơ thiếu nhiên liệu ( năng lượng ).
Nguy cơ thiếu lương thực, do việc thay đổi khí hậu do hâm nóng toàn cầu ( Global warming ), gây ra mất mùa và ảnh hưởng xấu lên sản lượng lương thực ( food ) song song với sự gia tăng dân số toàn cầu; sự cạnh tranh đất canh tác giữa đất trồng cây lương thực và đất trồng cây năng lượng. Sự cạnh tranh này không chỉ đơn giản là sự cạnh tranh về diện tích đất mà còn là sự cạnh tranh về gía cả do việc nông dân sẽ có lợi nhuận cao hơn khi chuyển đổi cây trồng từ việc trồng cây lương thực sang trồng cây cho năng lượng.
Nguy cơ thiếu năng lượng, do nhu cầu sử dụng nhiên liệu dầu hỏa gia tăng của các quốc gia đang gia tốc công nghiệp hóa (như Ấn độ, Trung Quốc và một số nước khác) cũng như cuộc chiến tại Vùng vịnh Á rập và sự bất ổn định của một số nước sản xuất dầu mỏ khác ảnh hưởng lên sức sản xuất dầu hỏa.
Năng lượng (energy) và lương thực là đề tài lớn, mà quốc gia nào cũng phải đặt ưu tiên hàng đầu. Lương thực là một trong nguồn sống chính của con người và đàn gia súc phục vụ cuộc sống. Năng lượng (bao gồm cả nhiên liệu) là "lương thực" cho các nhà máy và cuộc sống công nghiệp hiện đại.
Ta thử tìm hiểu những nguồn năng lượng (ngoài than đá, dầu hỏa là những nguồn năng lượng hiện đang được sử dụng) an toàn và sạch (ít gây ô nhiễm/ thân thiện đối với môi trường) đang được những quốc gia công nghiệp tiên tiến chú ý và tìm cách khai thác trong tương lai.
Nhìn vào những nghiên cứu tìm nguồn năng lượng mới ta có thể thấy những báo cáo khoa học liên quan đến những nguồn năng lượng sau :
- Năng lượng mặt trời : những nghiên cứu liên quan đến tế bào quang điện và các loại bình trữ điện ắc-quy (battery) .
- Năng lượng gió : các nghiên cứu liên quan đến các loại cánh quạt gió và các design cánh quạt để vừa đẹp mắt trong thành phố và có năng suất hấp thụ sức gió và biến thành điện qua các vòng quay của máy phát điện.
- Lưu lượng của nước (sông, biển), thủy triều, đập thủy điện là các loại năng lượng sạch, dùng sức nước để tạo vòng quay máy phát điện.
- Chuyển hóa năng lượng của khí Hydrogen : những nghiên cứu mới gần đây với các vật liệu công nghệ cao, tạo ra những "động cơ" chạy bằng Hydrogen, một nguồn nhiên liệu ( chất đốt, cho năng lượng ) sạch .
- Năng lượng địa nhiệt ( geothermo-energy ): lấy sức nóng trong lòng đất để chuyển hóa nước thành hơi nước (steam) và chạy máy phát điện .
- Nguyên tử năng: sử dụng nhiệt nguyên tử ( atomic thermo-energy ) để chạy máy phát điện.
- Nhiên liệu sinh học : tạo ra chất đốt (Ethanol) qua công nghiệp lên men (fermentation) chuyển hóa chất tinh bột (starch) đường (sugar) hoặc chất sợi (cellulose) của sản phẩm hoặc sản phẩm phụ của nông nghiệp hoặc lâm nghiệp thành chất đốt. Ngoài ra là các loại dầu (oil) từ các loại cây công nghiệp cho dầu. Để sản xuất nhiên liệu sinh học, ta cần phải có kế hoạch kỹ lưỡng để cân bằng, điều chỉnh giữa sản xuất lương thực và sản xuất nhiên liệu sinh hoc trong quy mô quốc gia và quốc tế. Trong nghiên cứu nhiên liệu sinh học (bio-fuel), các nhà nghiên cứu còn cố gắng sử dụng cả những nguồn nguyên liệu từ biển như rong biển (giant kelp) và các chất khoáng ở đáy biển. Ngoài ra còn có một khả năng sản xuất khí đốt Methane từ rác và các chất phế thải hữu cơ (organic wastes) .
Nói đến nhiên liệu sinh học; ta có thể thấy những nghiên cứu sản xuất nhiên liệu Ethanol (cồn đốt) và loại dầu sinh học (bio-diesel) từ: Lương thực (ngũ cốc dư thừa như lúa gạo, bắp ngô, hoặc các nông sản có tinh bột như khoai sắn, các lọai củ, và mía/đường); Nông lâm sản (không phải lương thực như rơm rạ, các chất sợi (Fiber) cellulose phân giải, các loại cây có dầu (oil) như dầu dừa, loại dầu từ nhựa cây (bio-diesel) hoặc một phần nhỏ tử dầu/mỡ cá (thủy sản).
Nguồn nhiên liêu sinh học lên men từ tinh bột là tác nhân cạnh tranh chủ yếu đến nguồn lương thực, và việc phát triển trồng cây năng lượng tất yếu cũng tạo sự cạnh tranh với đất canh tác của cây lương thực. Vì vậy cần phải có một chính sách hài hòa giữa đất canh tác lương thực và đất trồng nguyên liệu cho sản xuất nhiên liêu sinh học. Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của nhu cầu lương thực và nhu cầu năng lượng, sự cạnh tranh trước sau cũng xảy ra, nếu không có những giải pháp căn cơ hơn, như tăng cường năng suất trồng trọt (cho cả cây lương thực và cây năng lượng), và mở rộng diện tích trồng trọt cây năng lượng ra biển .
- Về tương lai xa, các nhà khoa học đang tìm đến một nguồn năng lượng mới: hiện nay các nhà khoa hoc còn tìm đến nguồn năng lượng ở ngoài vũ trụ như khả năng sản xuất năng lượng từ những quặng mỏ thu hoạch được ở mặt trăng (Moon) và ngay cả sao hỏa (Mars) tuy nhiên những nghiên cứu này còn ngoài tầm tay của nhiều quốc gia chưa phát triển về kỹ nghệ khai thác vũ trụ.
Nhìn tổng quát, ta thấy việc khai thác nhiên liệu sinh hoc chỉ là một trong những phương thức để tạo ra năng lượng, có thể vì công nghệ lên men nằm trong tầm tay của nhiều nhà nghiên cứu của nhiều quốc gia (kể cả các quốc gia chưa đạt đến trình độ công nghiệp cao).
Chính sách năng lượng là một chính sách lớn, mang tầm quốc gia và quốc tế (thí dụ chính sách phát triển quốc gia và đối ngoại của các nước Mỹ, Nhật, và nhiều nước công nghiệp và đang phát triển công nghiệp lệ thuộc khá nhiều vào nguồn cung cấp nhiên liệu) vì vậy việc định hướng nghiên cứu (phát triển loại năng lượng nào) là một việc quan trọng cho tương lai công nghiệp của một quốc gia dựa trên nhiều yếu tố thuộc vào khả năng về tài nguyên, môi trường và trí tuệ (chất xám) của quốc gia đó.
Nhìn về Việt nam, là một quốc gia có bờ biển dài, khí hậu nhiệt đới, nhiều nắng và gió, khả năng sản xuất lương thực cao, những năm gần đây, xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai hoặc ba của thế giới và sản xuất/xuất khẩu dầu hỏa là những hàng hóa có tẩm chiến lược. Về lương thực, việc có kế hoạch giữ vững hoặc gia tăng lượng sản xuất lương thực, cần bảo đảm diện tích đất trồng cây lượng thực phải là đất phì nhiêu nhất và không bị xâm lấn vì những mục đích khác. Về năng lượng, ngoài nguồn năng lượng hiện nay là dầu hoả và ta cần mau chóng thực hiện nghiên cứu phát triển công nghệ mới, khai thác các nguồn năng lượng sạch của thiên nhiên ưu đãi là: nắng, gió và nước (dòng chảy của thác, nước sông, hải lưu ngoài biển).
Nhưng trên hết vẫn là yếu tố trí tuệ của con người, từ yếu tố này việc không ngừng nâng cao khả năng sử dụng hữu hiệu những nguồn nguyên liệu quốc gia đang sở hữu hoặc nhập khẩu với gía rẻ mới được thực hiện tốt .
Ta có thể tham khảo Nhật Bản là một quốc gia không phong phú về tài nguyên nhưng quốc gia này đã có một chính sách đối ngọai/quan hệ quốc tế hiệu quả cao để có thể đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu và năng lượng cho sự phát triển quốc gia. Và đối với trong nước/chính sách quốc gia, họ có một chính sách đầu tư phát triển giáo dục khoa học/đào tạo hiệu quả, không ngừng nghiên cứu phát minh khoa học và ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ vào phục vụ phát triển kinh tế và đời sống.
Trên tinh thần phát triển bền vững, thiết nghĩ, VN ta cần thực hiện nhanh việc ứng dụng công nghệ sinh học để cải thiện năng suất trồng trọt cây lương thực, sản phẩm sinh học, đẩy mạnh việc nghiên cứu trồng cây lương thực và cây năng lượng trong biển phù hợp với các quy định của Công ước quốc tế về Luật biển. Và về năng lượng, là các chính sách khai thác hiệu quả và sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên năng lượng; đẩy mạnh việc sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo. Với những bước đi vững chãi này vấn đề năng lượng và lương thực sẽ không còn là một trở ngại qúa to lớn trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
( Người viết trân trọng cám ơn Ts Trần Hà Anh đã có nhưng góp ý qúy giá cho bài viết ).
Source: http://niemtin.free.fr/nangluongthucpham.htm
Cây sắn đang “đòi” chiến lược dài hơi
Với mặt bằng giá vượt trội, Trung Quốc thu mua với giá cao khiến sắn nguyên liệu phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước không đủ, thậm chí là khan hiếm.
Mặc dù giá sắn liên tục tăng 40- 50% trong thời gian qua nhưng doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu sắn trong nước vẫn phải “vất vả” cạnh tranh với thương nhân thu mua sắn xuất khẩu sang Trung Quốc...
Theo Bộ Nông Nghiệp và phát triển Nông thôn, năm 2010 với tổng giá trị xuất khẩu sắn đạt gần 560 triệu USD, Việt Nam trở thành một trong những nước xuất khẩu sắn thuộc top đầu trong khu vực. Sắn lát khô và tinh bột sắn là hai sản phẩm xuất khẩu chủ lực, trong đó sắn lát khô tỷ trọng xấp xỉ 60%. Chỉ tính riêng 2 tháng đầu năm 2011, nước ta đã xuất khẩu 593.000 tấn sắn, trị giá 202,3 triệu USD, tăng 34,4% về lượng và 72,6% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái
Nếu như năm 2008- 2009, sắn mọc mầm trên nương nông dân không thèm nhổ vì giá sắn củ tươi có lúc chỉ 200 đồng/kg. Ngay cả sắn lát khô, chất lượng tốt đưa lên biên giới cũng không được mặn mà thì nay sắn đã trở thành cây nông sản có giá, chiếm ưu thế trong nước và xuất khẩu. Từ mức giá 200- 500 đồng/kg năm 2009, đến năm 2010 lên khoảng 4.000 đồng/kg và hiện nay đã tới 5.700 -5.800 đồng/kg. Nếu sắn đủ tiêu chuẩn, chở tận nơi cho các nhà máy thức ăn chăn nuôi tại miền Bắc có mức giá hơn 6.000đ/kg.
Không chỉ dùng làm thức ăn chăn nuôi, sắn được dùng như một nguyên liệu để sản xuất ethanol, cùng với ngô, lúa mì và khoai lang ngọt. Ước tính, trong giai đoạn từ 2012 đến 2014, sản xuất ethanol sẽ tiêu thụ 16% tổng sản lượng sắn trong nước. Hiện Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đang xây dựng 3 nhà máy ethanol và dự kiến từ năm 2012 sẽ sản xuất 300 triệu lít/năm.
Hiện nhu cầu sử dụng sắn trong nước liên tục gia tăng, năm 2011, tổng cầu sắn củ tươi dành cho các ngành sản xuất trong nước khoảng 8,12 triệu tấn gồm (sản xuất ethanol: 1,89 triệu tấn; tiêu dùng cho người và sản xuất thức ăn chăn nuôi: 2,67 triệu tấn; sản xuất tinh bột sắn: 3,56 triệu tấn, tương đương 1,08 triệu tấn tinh bột sắn)…
Mặc dù giá sắn trong nước liên tục tăng, nhưng sắn Việt Nam vẫn ào ạt tuồn qua các cửa khẩu biên giới phía Bắc, bởi giá sắn xuất khẩu sang Trung Quốc đang cao hơn so với trong nước. Theo thống kê, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu sắn lớn nhất của Việt Nam, có đến gần 95% sản lượng sắn Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc. Tính riêng tại cửa khẩu Lào Cai, bình quân mỗi ngày có gần 400 tấn sắn củ xuất khẩu sang Trung Quốc. Theo dự tính của ngành chuyên trách, xuất khẩu sắn củ 2011 có khả năng lên đến hơn 4- 5 triệu tấn.
Với mặt bằng giá vượt trội, Trung Quốc thu mua với giá cao khiến sắn nguyên liệu phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước không đủ, thậm chí là khan hiếm, dễ dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp trong nước tranh mua không lành mạnh. Ông Đỗ Quang Bắc, giám đốc Công ty kinh doanh nông sản Trung Hòa (Chương Mỹ, Hà Nội), cho biết: Những năm trước, thường thì vào 3 tháng đầu năm, thị trường sắn xuất đi Trung Quốc khá trầm lắng. Hầu hết các doanh nghiệp thu mua sắn đều trữ sắn trong kho xuất dần trong cả năm. Tuy nhiên chỉ 3 tháng đầu năm nay, sắn xuất đi Trung Quốc liên tục cháy hàng. Ngoại trừ các doanh nghiệp đã ký hợp đồng cung cấp sắn cho các nhà máy trong nước, một số doanh nghiệp đã xuất khẩu đi Trung Quốc gần hết hàng dự trữ.
Trong kế hoạch 5 năm 2011- 2015, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra chủ trương giảm diện tích trồng sắn và nâng cao năng suất trồng sắn. Theo đó, diện tích trồng sắn của Việt Nam năm 2011 giảm xuống còn 490.000 héc ta và năng suất đạt 190 tạ/héc ta. Tuy nhiên, thực tế năng suất năm 2010 chỉ đạt 172 tạ/héc ta.
Với mức sản lượng 8,9 triệu tấn trong khi nhu cầu trong nước trên 8 triệu tấn và xuất khẩu khoảng 4-5 triệu tấn… tất yếu sẽ xảy ra tình trạng tranh mua nguyên liệu giữa các nhà máy sản xuất ethanol với các nhà máy thức ăn chăn nuôi, nhà máy sản xuất tinh bột sắn và lượng sắn dùng cho xuất khẩu.
Để đảm bảo nguồn cung trong nước và xuất khẩu, nhiều ý kiến cho rằng, sự phát triển của ngành sắn hiện nay cho thấy nhu cầu cấp bách trong công tác hoạch định chiến lược phát triển dài hạn, trong đó có tính đến các khía cạnh cân đối cung- cầu về xuất khẩu, nguồn cung nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, sản xuất ethanol, quỹ đất...
Theo Báo Công thương
Source: http://www.agro.gov.vn/news/newsdetail.aspx?targetid=18829
FOODCROPS. CÂY LƯƠNG THỰC
No comments:
Post a Comment